Sau 6 năm thực hiện Nghị định 13/2019/NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học và công nghệ (KHCN), Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra rằng số lượng doanh nghiệp KHCN được cấp giấy chứng nhận còn hạn chế và chưa đạt được 30% mục tiêu phát triển. Một thực trạng đáng báo động cho thấy nhiều thách thức đang cản trở sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này.
Mục lục
Thực Trạng Số Lượng Doanh Nghiệp KHCN

Theo đánh giá của Bộ Khoa học và Công nghệ, có rất ít doanh nghiệp KHCN được hình thành từ các viện, trường học hoặc chuyển đổi từ các tổ chức KHCN công lập. Các doanh nghiệp này chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số những đơn vị được cấp giấy chứng nhận. Điều này cho thấy sự kết nối giữa nghiên cứu và thực tiễn ứng dụng trong sản xuất kinh doanh còn yếu kém, không phát huy được tiềm năng của khoa học công nghệ.
Ngoài ra, số lượng doanh nghiệp KHCN được hưởng chính sách ưu đãi hiện vẫn thấp. Cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp KHCN còn thiếu thông tin và chưa được xác thực. Mặc dù quy định yêu cầu các doanh nghiệp KHCN phải báo cáo kết quả hoạt động, chỉ khoảng 30% – 40% trong số họ thực hiện điều này, gây ra sự nhầm lẫn về thực trạng phát triển.
Nguyên Nhân Khó Khăn

Bộ Khoa học và Công nghệ chỉ ra rằng một trong những nguyên nhân chính đó là chủ thuyết về mô hình doanh nghiệp KHCN chưa phù hợp. Việc xác định doanh nghiệp KHCN chủ yếu dựa vào thương mại hóa kết quả nghiên cứu chưa phản ánh đúng thực tiễn. Hơn nữa, còn tồn tại nhiều rào cản từ quy định pháp lý, nhất là trong quản lý tài sản công và các quy định về phòng, chống tham nhũng, khiến cho các chính sách hỗ trợ không thể thực thi hiệu quả.
Dù đã có hệ thống quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp KHCN, yêu cầu dành cho hệ thống ở các tỉnh hầu như chưa đáp ứng được. Thiếu sự quan tâm từ lãnh đạo địa phương cũng như nguồn nhân lực thực hiện chính sách là những nguyên nhân chính góp phần vào những khó khăn hiện tại.
Thiếu Tính Đặc Thù Trong Chính Sách Hỗ Trợ

Mặc dù doanh nghiệp KHCN được xác định là đối tượng hưởng chính sách ưu đãi, thực tế các chính sách hỗ trợ lại chưa có điều gì nổi trội, không khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác. Điều này dẫn đến việc không ít doanh nghiệp đã nhận ưu đãi từ các chính sách khác và không có nhu cầu chứng nhận doanh nghiệp KHCN.
Trong giai đoạn từ 2007 đến 2024, chỉ có một chương trình quốc gia hỗ trợ cho doanh nghiệp KHCN và nguồn lực rất hạn chế, điều này không thể đáp ứng nhu cầu thực tế của thị trường.
Chiến Lược Phát Triển Doanh Nghiệp KHCN
Mặc dù gặp nhiều khó khăn, phát triển doanh nghiệp KHCN vẫn là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển KHCN của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết số 41-NQ/TW đã khẳng định rằng cần có chính sách để mở rộng quy mô và nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Gần đây, Nghị quyết số 57-NQ/TW cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong doanh nghiệp.
Để hiện thực hóa những quan điểm này, Quốc hội đã thông qua Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm thay thế Luật Khoa học và công nghệ 2013. Nhiều nội dung trong Nghị định 13/2019/NĐ-CP giờ đây cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với hệ thống pháp luật mới.
Những Điểm Mới Trong Dự Thảo Nghị Định Thay Thế
Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 13/2019/NĐ-CP đã đề xuất một số điểm mới, trong đó có các điều kiện chứng nhận doanh nghiệp KHCN, không chỉ dựa vào Luật Doanh nghiệp mà còn theo quy mô doanh nghiệp như lớn, vừa, nhỏ. Các tiêu chí về chi cho KHCN và bộ phận nghiên cứu và phát triển được quy định rõ ràng để đánh giá năng lực nghiên cứu của doanh nghiệp.
Thêm vào đó, các chính sách ưu đãi cũng sẽ bao gồm thuế suất 10% theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025, lại còn quy định miễn thuế thu nhập cá nhân cho các chuyên gia và nhân lực tham gia vào các nhiệm vụ R&D. Các doanh nghiệp cũng nhận được hỗ trợ về đất đai phục vụ cho nghiên cứu với những ưu đãi như miễn phí thuê đất.
Đề Xuất Chính Sách Cho Doanh Nghiệp Khởi Nghiệp
Ông Huỳnh Thanh Vạn, Chủ tịch Hội đồng Tư vấn hỗ trợ khởi nghiệp Quốc gia phía Nam, cho biết rằng việc xác định các điều kiện cấp chứng nhận doanh nghiệp KHCN theo từng quy mô là rất hợp lý và cần thiết. Bên cạnh đó, ông cũng nhấn mạnh rằng nên có những chính sách riêng dành cho doanh nghiệp khởi nghiệp (startup), bởi nhiều sinh viên mới ra trường có ý tưởng sáng tạo nhưng thiếu nguồn vốn để thực hiện.
Các chính sách hỗ trợ về thuế và đất đai hiện tại đã đáp ứng được nhiều kỳ vọng, tuy nhiên, cần cụ thể hóa các quy định để đảm bảo việc thực hiện của cả doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý là thuận lợi.
Tóm lại
Sự phát triển của doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại Việt Nam đang gặp nhiều thách thức, từ quy định pháp lý không phù hợp đến những vấn đề trong chính sách hỗ trợ. Việc điều chỉnh mô hình doanh nghiệp KHCN và xây dựng chính sách đặc thù cho khởi nghiệp có thể giúp nâng cao tính khả thi và sức cạnh tranh cho ngành này trong tương lai.

